Đạo lý “Tứ đức” của Khổng Tử dành cho người phụ nữ với bốn chữ vàng “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” .Ngày xưa, thời mà thế giới quan của người phụ nữ chỉ gói gọn trong bốn bức tường gia đình với trọng trách “Tề gia, nội trợ” thì "Công, Dung, Ngôn, Hạnh" là chuẩn mực của người phụ nữ trong phạm vi hạn hẹp ấy; nó đòi hỏi người phụ nữ phải thành thạo, giỏi giang việc nữ công gia chánh, phải đảm đang việc bếp núc cửa nhà. Thời phong kiến, phụ nữ gắn với công việc gia đình cũng như đàn ông gắn với công việc giang sơn đất nước.Chữ "Công" ở xã hội phong kiến, gắn với người phụ nữ luôn đặt phụ nữ dưới cái nhìn soi xét của nề nếp gia phong, buộc người phụ nữ phải biết quán xuyến mọi việc trong gia đình từ việc tay hòm chìa khoá, quản lý gia nhân, nuôi dạy con cái, đến việc bếp núc thêu thùa, chăm lo cho hạnh phúc gia đình, cách thức ứng xử thế nào cho đúng với người trên, kẻ dưới, giữ gìn tư cách và đạo hạnh của người phụ nữ trong gia đình. Đối với phụ nữ của xã hội hiện đại thì chữ "Công" được đẩy lên một bậc cao hơn. Từ khi con người giương cao lá cờ bình đẳng giới, phụ nữ được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, được tham gia vào công tác xã hội, lúc này người phụ nữ không chỉ đảm đương tốt việc nhà mà còn thể hiện chữ "Công" rất tài tình ngoài xã hội, họ là những phụ nữ của thời đại mới với danh hiệu "giỏi việc nước, đảm việc nhà". Lúc này, người phụ nữ không chỉ khéo léo nội trợ, nữ công gia chánh, nuôi dạy con cái mà còn phải biết đối nội, đối ngoại, thông minh, nhanh nhạy, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Vì lẽ đó, phụ nữ hiện đại rất cần có một công việc tốt. Trước hết là để tạo thu nhập cho bản thân, sau đó là để bớt buồn tẻ, u uất vì quanh quẩn ở nhà. Không còn bị giới hạn trong một khoảng không gian chật hẹp nữa, phụ nữ hiện đại có thể làm điều mình thích, đi đến nơi mình muốn, mặc những bộ quần áo thời trang, phong cách hiện đại. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng phụ nữ có thể bỏ bê việc cửa nhà, bếp núc để chăm chút cho sự nghiệp, vẫn có rất nhiều phụ nữ hy sinh sự nghiệp của mình, bỏ qua con đường thăng tiến để là “hậu phương vững chắc”, là chiếc bóng phía sau thành công của người đàn ông. Người vợ đảm đang, tháo vát, nết na là một trong những đức tính cần thiết góp phần giúp gia đình êm ấm, hạnh phúc, bởi thế người xưa mới có câu: “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Một cô gái muốn chinh phục được người đàn ông mình yêu thì điều nhanh và thiết thực nhất chính là chăm sóc cho anh ta, đến khi kết hôn rồi cũng không có gì giữ chân người đàn ông hiệu quả bằng những thi vị trong bữa cơm gia đình. Làm tốt công việc của mình sẽ giúp người phụ nữ nâng cao giá trị bản thân và càng khẳng định hơn vị thế của mình trong gia đình và xã hội.Chữ “Dung” của phụ nữ trong cả xã hội xưa và nay đều không chỉ thể hiện ở vẻ đẹp về dung nhan do tạo hóa hay sự khéo léo trong cách ăn mặc, mà người phụ nữ còn phải khỏe mạnh, thực hiện thiên chức lớn lao là duy trì nòi giống. Chữ “Dung” không chỉ toát lên từ nét đẹp hình thể, tâm hồn, sự duyên dáng mà còn thể hiện sự chín chắn, thủy chung. Tuy thời thế có thay đổi nhưng vẻ đẹp của người phụ nữ vẫn luôn cần có sự kết hợp giữa hình thức bên ngoài và tâm hồn bên trong. Phụ nữ đâu phải ai sinh ra cũng đã có vẻ đẹp thiên bẩm, mỗi cá nhân có cách khắc phục dung nhan cho riêng mình. Người xưa cho rằng phụ nữ phải yểu điệu, phải như nhành liễu mềm, phải hạn chế biểu lộ cảm xúc của mình. Nhưng phụ nữ ngày nay, ngoài năng lực thực sự được xã hội nhìn nhận qua công việc thì sắc đẹp cũng là một yếu tố giúp họ thành công hơn; chất nữ tính toát lên trong cách ăn mặc, trang điểm phù hợp với đặc thù công việc tạo phong thái cởi mở, tự tin, dễ hòa đồng cho người phụ nữ. Chẳng hạn, trang điểm cho thêm xinh xắn nổi bật, cắt tỉa mái tóc cho phù hợp khuôn mặt, một chút son môi đỏ, một chút phấn mắt nhấn nhá để tăng thêm quyến rũ và tự tin đứng trước mọi người. Có những cô gái còn phải dùng đến phẫu thuật thẩm mỹ để mang đến cho mình một diện mạo mới. Vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ hiện đại còn thiên về sự khỏe khoắn, họ có cơ hội tự do lựa chọn các liệu pháp để giữ gìn sắc đẹp và làm cho mình đẹp hơn. Rất nhiều chị em phụ nữ đã chú tâm đến phương diện này, bằng chứng là họ đã đăng ký vào các lớp thể dục nhằm tăng cường sức khỏe cho bản thân để có thể lao động và cống hiến cho gia đình, xã hội. Người phụ nữ ở mỗi lứa tuổi đều có cách làm đẹp riêng cho mình bởi “không có người phụ nữ xấu chỉ có phụ nữ không biết làm đẹp”. Theo cách gọi của Napoleon thì “Phụ nữ là những bông hoa có linh hồn”, một nửa của Thế giới con người được mệnh danh là “Phái đẹp”, chữ “đẹp” ở đây không chỉ đơn thuần là vẻ đẹp của hình thức mà còn là vẻ đẹp của tâm hồn và tính cách. Cái đẹp về hình thức của người phụ nữ là món quà tặng không phải trả giá của Thượng Đế ban cho, thì rồi Thượng Đế cũng dần lấy lại theo thời gian; chỉ có cái đẹp nội tâm, cái đẹp tâm hồn của người phụ nữ mới là vĩnh cửu nếu họ biết giữ gìn và trân trọng nó. Một người phụ nữ không đẹp vẫn khiến người khác phải ngước nhìn và khen ngợi nếu có tâm hồn đẹp,vì thế mà người ta vẫn thường bài xích những cô gái đẹp bên ngoài mà vô cảm bên trong.Chữ “Ngôn” trong đạo “Tứ đức” là lời nói, nhưng không phải người phụ nữ nào cũng biết sử dụng và sở hữu được nó. Chữ “ Ngôn” không chỉ là lời nói đơn thuần phát ra từ sự rung của thanh quản khi ta phát âm, mà nó còn phải xuất phát từ sâu thẳm trong tâm hồn của những rung động, những cảm xúc tận đáy lòng được thốt lên bằng từ ngữ, lời nói; đó là những ngôn từ có duyên, dịu dàng. Thời xưa, phụ nữ không được đến trường nên bị giới hạn tầm hiểu biết, bị áp đặt trong những quy tắc chặt chẽ, khắt khe của chế độ Phong kiến, hiếm có quyền được đưa ra ý kiến của mình, họ luôn thụ động nhận những gì người khác sắp đặt cho mình. Sự khôn khéo trong chữ “Ngôn” của người phụ nữ được các cụ răn dạy lúc cứng rồi lại phải mềm, có cương có nhu, lựa lời nói với chồng cho phải nơi, phải lúc: “Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa, một đời không khê”. Khi mở lời, thì lời ăn tiếng nói của người phụ nữ phải biết thưa gửi, dạ vâng, biết ý tứ rào trước đón sau để làm sao cho không mất lòng người nghe; phải đúng mực, nhỏ nhẹ, lễ độ thể hiện sự gia giáo: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Ngày nay, phụ nữ không còn bị bó hẹp trong bốn bức tường gia đình nữa mà đã được tự do giao thiệp, tự do trao đổi ngoài xã hội. Họ là những người có tri thức, có hiểu biết, có rèn giũa; rất nhiều phụ nữ đang là những nhà phát ngôn nổi tiếng, hoặc đi diễn thuyết khắp mọi nơi, được tự do ngôn luận nêu lên ý kiến của mình trước hàng ngàn, hàng vạn người; vì thế, không chỉ thời xưa mà thời nay phụ nữ cũng rất cần nói năng có lễ độ, đúng mực, nhỏ nhẹ. Chẳng có ai thích một cô gái luôn the thé, hò hét hay có những lời nói thô tục; lời nói dịu dàng sẽ nên duyên. Lời nói vốn là công cụ giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa một người với mọi người xung quanh, vì thế chữ "Ngôn" ở người phụ nữ là cả một nghệ thuật sống. Lời nói của người phụ nữ không cần phải cầu kỳ, hoa mỹ nhưng nó phải rõ nghĩa và xuất phát từ sự chân thành. Quan niệm về chữ “Ngôn” của người phụ nữ thời nay cũng cần có sự kế thừa, phát triển để phù hợp với nhu cầu giao lưu, tiếp xúc, thể hiện mình, từ cách nói năng lịch thiệp, lối xã giao khéo léo, ứng xử thông minh trong mọi tình huống, thể hiện văn hóa và vốn học thức của người phụ nữ. Và thông qua lời nói, cử chỉ của người phụ nữ chúng ta có thể nhận biết được người đó có được dạy bảo cặn kẽ hay không, hoặc sẽ biết được tính cách và nội tâm của họ. Nét đẹp của chữ “Ngôn” càng tôn vinh thêm thế mạnh đặc trưng của phái nữ và người phụ nữ càng giữ được thế mạnh của mình hơn chính ở cách ăn nói mềm mỏng, dễ nghe, từ tốn với phương châm "Lạt mềm buộc chặt". Chữ "Hạnh" là phần đức thứ tư trong đạo “Tứ đức”, Khổng Tử đặt chữ “Hạnh” xuống cuối cùng với ý nghĩa bao hàm và nhấn mạnh. Chữ “Hạnh” ở đây không chỉ là phép lịch sự trong lời ăn tiếng nói, cách ứng xử hay cách ăn mặc của người phụ nữ, mà nó là phép tu dưỡng đạo đức của cả một đời người, nó xuất phát từ trong ý thức, đạo đức con người. Chữ “Hạnh” (đức hạnh) còn là sự thể hiện phẩm chất đạo đức của người phụ nữ trong gia đình ở sự kính trên, nhường dưới; ở lòng vị tha, độ lượng, nhân ái, yêu chồng, thương con và rõ nét hơn nữa là ở lòng tự trọng trong chữ “chính chuyên”. Ông cha ta có một câu ngạn ngữ rất nặng nề để cảnh cáo những người vợ kém đức hạnh: “Chó dữ mất láng giềng, vợ dữ mất anh em”. Chữ “Hạnh” của người phụ nữ trong xã hội hiện đại, bên cạnh việc cần thiết phải giữ gìn những phẩm chất truyền thống như: làm tròn bổn phận dâu - con, nhân ái, chung thủy, yêu chồng, thương con (là con thì phải trọn chữ hiếu, là vợ thì phải giữ thủy chung, là mẹ phải giàu lòng nhân ái, không vì cám dỗ của cuộc sống mà đánh mất mình) người phụ nữ còn phải là một công dân tốt, biết ước mơ, hoài bão, sống có trách nhiệm với xã hội, cộng đồng. Không khó tìm những gương mặt phụ nữ tiêu biểu có đức hạnh khiến người khác phải ngưỡng mộ và tôn trọng; đó là người vợ tần tảo thương chồng yêu con, giữ trọn nét thủy chung và sự kiên nghị, sánh vai chèo lái cùng chồng dù hoàn cảnh khó khăn. Họ sống có lương tâm, có lòng vị tha, biết hy sinh vì người khác, đồng thời là niềm tự hào của chồng con. Hiện tại, nhiều quốc gia trên thế giới rất coi trọng đức hạnh của người phụ nữ; bởi thông qua đó, sẽ nhìn thấy tâm hồn và tín ngưỡng của người phụ nữ ấy, đồng thời phản ánh được cách nuôi dạy con cái của một gia đình, một cộng đồng. Đức “Hạnh” là điều rất căn bản của người phụ nữ “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Đó là đạo “Tứ đức” trải nghiệm trong xã hội xưa và nay, vượt qua các thời kỳ lịch sử khác nhau “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” vẫn vẹn toàn, nó vừa là cái đích hướng đến, vừa là thước đo, là tiêu chí để khẳng định giá trị của người phụ nữ ở mọi thời đại, làm nên nét bản sắc của phụ nữ Việt Nam. Nhưng vẫn còn những tồn tại đáng bàn về “Tứ đức” trong xã hội hiện đại, đó là do những biến đổi của xã hội và ảnh hưởng bởi những khuyết tật của cơ chế thị trường, nét đẹp truyền thống cần trân trọng, giữ gìn của một bộ phận nhỏ phụ nữ đang bị mai một, biến tướng bởi lối sống “sành điệu”, đặc biệt là giới trẻ. Mặc dù nữ công gia chánh là chức năng số một của người phụ nữ trong gia đình nhưng đáng buồn thay những phụ nữ này lại không mấy mặn mà với công việc nội trợ; một số phụ nữ không thể hát nổi một bài hát ru con, trong khi lại du nhập vào đầu những thể loại nhạc luôn dành cho khác phái như Hip
Hop, Rock, Rap…; họ không biết nấu những món ăn theo truyền thống gia đình chứ chưa nói đến những món ăn truyền thống của dân tộc; điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến thiên chức làm vợ và làm mẹ của người phụ nữ. Một số phụ nữ chỉ luôn quan tâm đến việc đề cao vẻ đẹp ngoại hình, thích phấn son, chưng diện, quan niệm về trang phục “cởi mở” thái quá; còn việc trau dồi ngôn ngữ, cách nói năng là điều cần thiết thì số phụ nữ này lại không cho đó là điều cần phải chú trọng; thay vì cách ăn nói nhỏ nhẹ, đúng mực, từ tốn, tinh tế, thì họ có lối ăn nói cộc lốc, đanh đá, thiếu văn hóa. Lối sống thích hưởng thụ, dễ dãi, buông thả cũng khiến cho chữ “Hạnh” của một số phụ nữ này ít nhiều bị sứt mẻ. Xã hội thay đổi, quan niệm “Tứ đức” cũng có những ảnh hưởng, có thể được bổ sung thêm những điểm mới, nhưng sự bổ sung, phát triển ấy cần phải được dựa trên nền tảng của những giá trị truyền thống tốt đẹp. Những biểu hiện lệch lạc trong lối sống xa rời chuẩn mực truyền thống của một bộ phận phụ nữ cần phải được uốn nắn, điều chỉnh từ phía gia đình và các tổ chức đoàn thể xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ đã có những thay đổi về vị trí và vai trò của mình nhưng tiêu chuẩn phụ nữ thời nay vẫn không thể thiếu đi bốn chữ “Công, Dung, Ngôn, Hạnh”. Vì thế, bốn chữ “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” của người phụ nữ ở thời đại nào cũng không thể xem nhẹ và đã trải qua hơn 2.000 năm đạo “Tứ đức” vẫn giữ nguyên giá trị của nó./.

Bạn đang xem: Người phụ nữ trong xã hội phong kiến


Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 9: Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất ✅ tại website mamnontuoithantien.edu.vn có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

TOP 12 bài Phân tích Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều sẽ giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về những nỗi bất hạnh, đau thương, tủi hờn mà họ phải gánh chịu.


*

Dưới chế độ phong kiến hà khắc, lạc hậu đã trói buộc người phụ nữ trong sợi dây vô hình của sự bất công, khiến họ phải chịu bao bất hạnh, đau khổ tới cùng cực. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của mamnontuoithantien.edu.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9.


Dàn ý số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến

I. Mở bài

“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là hai tác phẩm khá thành công khi viết về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.Qua hai tác phẩm đã học: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta thấy rõ những nỗi đau khổ mà người phụ nữ phải gánh chịu.

II. Thân bài

1. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ

Nàng Vũ Nương là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy bất công đối với người phụ nữ.Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ) – sự cách biệt giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”, cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo và gia trưởng.Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Trương Sinh tin nên đã hồ đồ độc đoán mắng nhiếc đánh đuổi vợ đi, không cho nàng thanh minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan khuất để tự minh oan cho mình.Cái chết đầy oan ức của Vũ Nương cũng không hề làm cho lương tâm Trương Sinh day dứt. Anh ta cũng không hề bị xã hội lên án. Ngay cả khi biết Vũ Nương bị nghi oan, Trương Sinh cũng coi nhẹ vì việc đã qua rồi. Kẻ bức tử Vũ Nương coi mình hoàn toàn vô can.

2. Nhân vật Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền đen bạc.Vì tiền mà bọn sai nha gây nên cảnh tan tác, chia lìa gia đình Kiều:

Một ngày lạ thói sai nhaLàm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền

Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh – một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong đo đếm, cò kè mặc cả…Cũng vì món lợi đồng tiền mà Mã Giám Sinh và Tú Bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, cay đắng suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

3. Điểm giống nhau giữa hai nhân vật

Họ đều là những người phụ nữ đẹp về mọi mặt nhưng đều bất hạnh.Nạn nhân của xã hội phong kiến với nhiều định kiến hẹp hòi, bất công với người phụ nữ.Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thuý Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải mọi nỗi oan ức, để giải thoát cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt của mình.

4. Mở rộng vấn đề

Người phụ nữ trong hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất và cũng là đầy đủ những gì đau khổ, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.Viết về người phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ đã đứng trên lập trường nhân sinh để bênh vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt với các thể lực đã gây ra nỗi đau khổ cho họ.Liên hệ với cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.

III. Kết bài

Người đọc hiểu và cảm thông sâu sắc với những người phụ nữ bất hạnh và đấu tranh cho hạnh phúc của người phụ nữ.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều

Chế độ phong kiến với những định kiến lạc hậu, hà khắc đã trói buộc người phụ nữ trong sợi dây vô hình của sự bất công. Tuy nhiên, mặc cho sự giằng xé đầy đau đớn và tủi hờn của sợi dây đó, người phụ nữ vẫn luôn giữ cho mình những nét đẹp riêng cùng cốt cách thanh cao. Bằng sự đồng cảm với số phận bất hạnh ấy, nhiều nhà văn đã khai thác và lưu giữ hình ảnh người phụ nữ đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ bằng những ngôn từ của nghệ thuật.

Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ) và “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) là hai tác phẩm tiêu biểu cất lên tiếng khóc thương cho thân phận người phụ nữ. Dẫu Kiều và Vũ Nương, mỗi người đều có những hoàn cảnh riêng, nhưng họ lại mang những nỗi đau chung cùng nét đẹp đại diện cho người phụ nữ Việt bao đời nay.

“Chuyện người con gái Nam Xương” kể về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương. Vũ Nương là một người con gái có nhan sắc và đức hạnh vẹn toàn. Nàng lấy phải người chồng tên Trương Sinh, là con của nhà hào phú nhưng ít học, lại hay đa nghi, cả ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đi lính. Cũng từ đó, bi kịch của đời nàng đã bắt đầu.

Khi chồng đi đầy tuần thì Vũ Nương sinh ra một đứa con trai, nàng hết lòng nuôi dạy con, lại chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo. Đồng thời, nàng cũng luôn chung thủy đợi tin chồng về. Đêm đêm, để nguôi ngoai nỗi nhớ chồng và dỗ con mỗi lần nhớ cha, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con rằng đó chính là cha Đản.

Khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ, liền nghi ngờ vợ mình thất tiết. Chàng ta chẳng hề cho nàng cơ hội giải thích, thanh minh đã nhục mạ rồi đánh đuổi nàng đi. Vì phẫn uất, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Một thời gian sau, khi đã biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hiện về giữa bến Hoàng Giang, rồi lại lúc ẩn, lúc hiện và biến mất.

Truyện Kiều là câu chuyện xoay quanh cuộc đời gian truân của Thúy Kiều. Kiều là con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện. Nàng sống cùng cha mẹ và hai em, nổi tiếng bởi tài sắc vẹn toàn. Trong một buổi du xuân, Kiều đã gặp Kim Trọng và cả hai nảy sinh tình cảm, tự do đính ước với nhau. Nhưng chuyện vui chưa kịp mừng, chuyện buồn liền ập đến. Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều đã bị mắc oan.

Vì cha và em, Kiều phải bán mình cho bọn buôn người. Chúng đẩy nàng vào chốn lầu xanh, dẫu may mắn gặp Thúc Sinh cứu vớt, nhưng nàng phải chịu sự đầy đọa của vợ cả là Hoạn Thư. Thúy Kiều phải đến nương nhờ nơi cửa phật, rồi lại vô tình bị đẩy vào lầu xanh lần hai khi sư Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà.

Lần này, Kiều gặp được Từ Hải và được chàng ta giúp đỡ báo ân báo oán. Chưa kịp hạnh phúc, tai ương lại ập đến. Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến hãm hại rồi hắn ép gả nàng cho viên thổ quan. Quá đau đớn, dằn vặt và tủi hờn, Kiều đã trẫm mình tại sông Tiền Đường và lại được sư Giác Duyên cứu giúp lần hai. Sau đó, nàng đã nương nhờ nơi cửa phật.

Lại nói, chàng Kim sau khi trở về biết chuyện và dù đã kết hôn với Thúy Vân, nhưng chàng cũng chẳng thể buông bỏ được mối tình đậm sâu với người cũ. Cuối cùng, nhờ gặp được sư Giác Duyên, Kim Kiều đã gặp nhau và gia đình đoàn tụ.

Nguyễn Du đã từng viết:

“Đau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Đó là tiếng nấc nghẹn ngào cho thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội đương thời mà Nguyễn Du khóc thương thay cho họ. Dường như, ông thấu hiểu rõ sự đau khổ và bất lực của họ khi sống trong một xã hội thối nát với đầy rẫy những bất công, định kiến, của tư tưởng trọng nam khinh nữ.

Người phụ nữ đương thời, ai cũng đều thùy mị, đảm đang nhưng chẳng bao giờ giữ được hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả việc mưu cầu hạnh phúc cũng chỉ như một giấc mơ xa vời với họ. Họ mang thân phận người phụ nữ hèn mọn, dù mỗi người một cuộc sống riêng, nhưng chẳng ai thoát khỏi sức nặng của hai từ “bạc mệnh. Ta có thể thấy rõ được điều đó qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều trong hai tác phẩm của hai tác giả đại tài.

Người phụ nữ xuất hiện trong văn chương đều là những người xinh đẹp, đẹp cả ngoại hình cho đến tính cách và nội tâm. Ở Vũ Nương, nàng mang nét đẹp “thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, luôn biết cách dung hòa mặc cho tính khí của chồng khi “giữ gìn khuôn phép, chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra bất hòa”. Nàng luôn một lòng một dạ vì gia đình, không hề than thở hay mong cầu vinh hoa phú quý.

Với Thúy Kiều, nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi gia đình gặp biến cố, nàng đã không ngại đối diện với thị phi, với tương lai mù mịt phía trước để bán mình chuộc cha. Và rồi, nàng bỏ lỡ lời hẹn thề với Kim Trọng – người mà nàng yêu thương nhất. Cuộc đời nàng dẫu có bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thăng trầm, nhưng nàng vẫn cam chịu, vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng, cho gia đình mà chẳng màng đến bản thân. Nàng có một tâm hồn thủy chung và cao thượng.

Đó cũng chính là nét đẹp chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp người đẹp nết, dẫu đời đưa họ vào cảnh khốn cùng, họ vẫn luôn một lòng thủy chung, hiếu thảo với gia đình, mặc kệ bản thân chịu dày vò trong hố đen tuyệt vọng.

Họ đẹp đẽ là thế, đáng trân trọng là thế, nhưng họ lại sống trong một xã hội quá thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, với tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ. Họ càng xinh đẹp thì càng phải chịu cảnh bất công “hồng nhan bạc phận”. Vũ Nương cứ ngỡ sẽ được sum vầy hạnh phúc nếu luôn chăm lo chu toàn mọi thứ, nhưng số phận bạc bẽo lại trêu ngươi nàng. Đến cả khi nàng chết trong oan ức, nàng cũng không được nhớ nhung, không được thương tâm. Đáp lại nàng chỉ là sự hời hợt, vô tâm của người chồng. Và chính cái chết của nàng đã tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cái xã hội ấy đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng, ban cho họ thân phận thấp hèn và một cuộc đời bi thương.

Còn Thúy Kiều, nàng dường như có cuộc sống lênh đênh hơn Vũ Nương rất nhiều bởi những biến cố đi qua và hằn sâu vết sẹo vào đời nàng. Gia đình nàng vì đồng tiền hôi tanh mà phải chia ly, tan tác. Nàng cũng vì thế mà phải bán mình chuộc cha, để rồi trở thành món hàng không hơn không kém trong tay bọn buôn người. Đau đớn thay cho nàng, một người con gái trong trắng, tài sắc vẹn toàn nay chỉ là một món đồ chơi của bọn khách làng chơi. Không chỉ thế, nàng còn phải chịu cảnh đời lênh đênh bèo dạt, lưu lạc mười lăm năm và bị giáng xuống đầu muôn vàng tai ương.

Vũ Nương và Thúy Kiều chính là những nhân vật đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không có quyền lợi, không có tự do, cũng chẳng có quyền được hạnh phúc – một cái quyền cơ bản nhất của con người. Họ bị hủ tục thối nát của xã hội phong kiến đẩy xuống vực sâu, chịu muôn vàn tủi hờn và đau thương. Dù họ cam chịu hay vùng vẫy, họ cũng chẳng bao giờ thoát được nanh vuốt của xã hội thối nát đó. Nhưng sau tất cả, họ vẫn giữ được cho mình vẻ đẹp đáng trân quý của tâm hồn thanh cao.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến – Mẫu 1

Nền văn học trung đại thế kỷ XVI trở đi có lẽ đã đánh dấu một xu hướng nhận thức mới mẻ trong tư tưởng của các văn nhân thi sĩ, của các nhà nho đương thời về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ và Nguyễn Du dù sinh sống tại các thời đại cách nhau đến gần 2 thế kỷ thế nhưng ở hai tác giả lại có một điểm tương đồng trong các sáng tác của mình đó là tấm lòng xót thương, cảm thông cho thân phận nhỏ bé, yếu đuối của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến cổ hủ lạc hậu, khiến họ phải chịu nhiều thương tổn, oan khuất, dù rằng bản thân họ có nhiều những đức tính tốt đẹp. Mà ta có thể thấy rất rõ tư tưởng này thông qua các tác phẩm nổi tiếng như Chuyện người con gái Nam Xương (nằm trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ) và các đoạn trích của Truyện Kiều (Nguyễn Du).

Trước hết nói về thân phận người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Trước hết nói về những phẩm chất đáng quý của Vũ Nương, nàng tuy là con gái nhà nghèo, thế nhưng lại là một người con gái có nhan sắc xinh đẹp, nhân phẩm cao quý. Chính vì vậy Trương Sinh con trai nhà phú hộ mới không màng đến chuyện môn đăng hộ đối mà dành cả trăm lượng bạc, sính lễ hậu hĩnh để rước nàng về làm vợ hiền dâu thảo. Tuy nhiên cuộc sống vợ chồng êm ấm chưa được bao lâu thì chồng nàng phải tòng quân đánh giặc xa nhà, để lại nàng đang mang thai và người mẹ chồng già yếu. Là một người con gái đức hạnh thế nên khi mẹ chồng vì nhớ con trai mà ốm đau nàng vẫn luôn hết lòng chăm sóc như mẹ để, lúc bà mất nàng cũng lo toan tang lễ thật chu toàn, không có gì có thể chê trách được. Rồi sau đó còn một thân một mình, nàng sinh con sau đó lại nuôi nấng, chăm bẵm hết lòng cho đứa con trai nhỏ, một lòng thủy chung đợi ngày chồng trở về sum họp. Những tưởng một người đàn bà có tấm lòng hiếu thuận, thương yêu chồng con, cùng nhan sắc xinh đẹp như vậy, ắt hẳn khổ tận rồi cũng đến ngày cam lai. Thế nhưng không, Vũ Nương khi ở nhà chồng dù đã hết mực làm tròn bổn phận, nhưng vẫn phải dè dặt cẩn trọng vì sợ chồng ghen tuông. Đến khi vất vả chờ được chồng trở về thì chỉ vì một câu nói khờ dại của đứa con lên ba, mà nàng hàm oan tội bất trinh với chồng. Cuối cùng vì giải thích trăm bề mà không được chồng tin tưởng, Vũ Nương vì khuất nhục, vì cùng đường mà phải chọn giải pháp tự kết liễu để minh oan cho bản thân. Có thể nói rằng tư tưởng trọng nam khinh nữ và việc người phụ nữ dưới chế độ phong kiến không có tiếng nói, không được bênh vực, phải phụ thuộc vào gia đình nam nhi, đã khiến cho họ dễ dàng bị rơi vào bế tắc và chịu nhiều thiệt thòi. Nguyễn Dữ vì thấu hiểu và thông cảm cho số phận của người phụ nữ thế nên đã cho Vũ Nương một cái kết đỡ bất công hơn, ấy là để nàng sống lại dưới thủy cung có cuộc sống cẩm y ngọc thực. Thế nhưng suy xét kỹ thì đó vẫn là một cái kết không vẹn toàn, bởi lẽ dù được sống lại, chứng minh được oan khuất thế nhưng Vũ Nương vẫn không được đoàn tụ với chồng con, phải chịu cảnh cô đơn đời đời dưới đáy nước. Chung quy lại, dù thế nào bản thân Vũ Nương vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi và khổ đau nhất, câu chuyện là minh chứng cho việc người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đương thời chưa bao giờ có hạnh phúc. Họ bị đối xử quá bất công, dù có bỏ bao nhiêu công lao, hy sinh hay một lòng trung trinh thì cũng dễ dàng bị gạt bỏ và phủ nhận, cuối cùng phải chịu kết quả bi thương. Điều đó không chỉ phản ánh thân phận bèo bọt của người phụ nữ xưa, mà còn phản sự bất công, cổ hủ của chế độ phong kiến lỗi thời, phản ánh cả những cuộc chiến tranh vô nghĩa đã khiến các gia đình ly tán, mà người chịu hậu quả cuối cùng vẫn luôn là người phụ nữ.

Hai trăm năm sau, Nguyễn Du đã xuất hiện trên nền văn học trung đại Việt Nam như một ngôi sao sáng, hầu hết các tác phẩm của ông đều mang tư tưởng nhân đạo sâu sắc, với đối tượng chủ yếu là người phụ nữ tài sắc nhưng cuộc đời lắm trái ngang bất hạnh. Điều đó đã cho thấy một sự thật rõ ràng rằng sau hơn hai trăm năm bãi biển nương dâu, thương hải tang điền, thì thân phận người phụ nữ, vai trò và giá trị của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến vẫn không hề thay đổi. Họ vẫn phải chịu nhiều bất công, nhiều đớn đau và uất hận nhất, cũng chẳng mấy ai chú ý và thương cảm cho cuộc đời họ ngoài một số văn nhân, thi sĩ có tư tưởng khoáng đạt như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, và các nhà thơ nữ ý thức sâu sắc về thân phận mình như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm. Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du từng là một nhân vật nhận được nhiều luồng ý kiến trái chiều, tuy nhiên xét về khía cạnh nhân văn nhân đạo thì đích thị nàng là một trong những nạn nhân thê thảm và đáng thương nhất của chế độ phong kiến hà khắc, cổ hủ và lạc hậu. Thúy Kiều có xuất phát điểm tốt hơn Vũ Nương, nàng là con gái nhà giàu, lại có nhan sắc chim sa cá lặn, tài văn chương thơ phú “thông minh vốn sẵn tính trời”, thêm ngón hồ cầm tinh thông. Thành thử Kiều có lẽ là hình tượng người con gái mang vẻ đẹp toàn diện và tuyệt đối trong văn học Việt Nam. Không chỉ vậy bản thân Thúy Kiều còn có tự do lựa chọn cho mình một tình yêu đẹp với Kim Trọng, thậm chí cả hai đã đến hồi đính ước. Thế nhưng cũng như Vũ Nương, Thúy Kiều không vì những phẩm chất tốt đẹp của bản thân mà được hưởng cuộc sống hạnh phúc dài lâu. Đầu tiên nhà Kiều lâm đại nạn, cha và em bị bắt giải đi, bị đánh đập, tài sản nhà cửa bị niêm phong, tai họa đổ ập xuống đôi vai bé nhỏ của người con gái mới chớm tuổi cập kê. Trước tình cảnh khốn cùng đó, Thúy Kiều đành phải bỏ “tình”, theo “hiếu”, bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em. Đồng thời bội ước với Kim Trọng, nhờ em gái của mình là Thúy Vân trả nghĩa cho chàng. Thông qua những chi tiết này người ta có thể nhận định rằng thân phận phụ nữ trong chế độ phong kiến quả thực quá mong manh và nhỏ bé. Mới hôm trước còn là tiểu thư đài các, thì ngày nay đã trở thành một món hàng được người ta ngã giá, trở thành thiếp cho một người đàn ông đáng tuổi cha chú, phải nén đau thương từ biệt gia đình, từ bỏ tình yêu đầu đời. Trước những biến cố đổi đời như thế, Thúy Kiều hoàn toàn không có sức phản kháng, cũng không thể xoay chuyển được tình huống và phải cam chịu khuất phục trước số phận bọt bèo của mình. Bao nhiêu nhan sắc, tài năng của người phụ nữ đứng trước tư tưởng trọng nam khinh nữ, trước sự bất công của xã hội hoàn toàn không có một chút phân lượng nào, cùng lắm chỉ đáng giá vài ba trăm lượng bạc trắng, đổi một kiếp người. Nhưng cuộc đời Kiều không dừng lại ở việc làm vợ lẽ cho người ta, mà nàng còn bị đẩy đến bước đường buôn phấn bán hương. Sống một cuộc đời đau đớn, khổ sở, tuyệt vọng trăm bề sau nhiều lần bị lừa dối bởi những gã đàn ông đáng ghê tởm. Trong mắt những kẻ này, Thúy Kiều là một món lợi, bọn chúng lợi dụng sắc đẹp của nàng, rồi biến nàng thành những khoản tiền cho mình, chẳng bao giờ có sự xót thương, thấu hiểu gì với nàng. Cho đến khi Thúy Kiều gặp Thúc Sinh, những tưởng là đã gặp được vị cứu tinh của cuộc đời, nhưng đời Kiều lại rơi vào nỗi khổ ải với chế độ đa thê phong kiến, một lần nữa phải gánh chịu những nhục nhã, chèn ép từ người vợ cả của Thúc Sinh, lần nữa chịu áp bức dưới cường quyền. Nhan sắc, tài năng của nàng trở thành thứ khiến người ta ghen ghét, đố kỵ và tìm cách trừ khử. Có thể nói rằng thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến phải chịu quá nhiều bất công và khổ sở, không chỉ vậy tài năng và nhân phẩm của họ cũng không hề được coi trọng và đánh giá một cách đúng đắn. Thân làm kiếp đàn bà ở thời đại này, đã xác định là không có được hạnh phúc mà mình muốn, kẻ may mắn thì được an yên nhẫn nhịn một đời, kẻ xui xẻo thì phải chịu trăm ngàn đắng cay, cuộc đời nhục nhã, sống không bằng chết đi.

Xem thêm: Top 5 loại dầu xoa bóp xương khớp thái lan giá tốt t06/2023, dầu xoa bóp nhức mỏi

Thông qua hai tác phẩm tiêu biểu về thân phận người phụ nữ dưới chế độ cũ là Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng những người phụ nữ xưa đã phải nhận quá nhiều bất công và trái ngang trong cuộc đời, họ không có quyền tự do, không có quyền được mưu cầu hạnh phúc, không được coi trọng, dù đẹp xấu, giàu nghèo thì cuộc đời cũng gắn với hai chữ bọt bèo trôi nổi không biết là về đâu. Mà cho đến ngày hôm nay khi xã hội đã đổi thay, đọc lại ta mới lại càng thấy trân trọng, yêu thương và thông cảm cho thận phận tội nghiệp, xót xa của biết bao nhiêu kiếp hồng nhan thuở xưa.